Năm nào cũng vậy, sắp đến rằm tháng chạp là má lại chộn rộn hối hả nhắc đi nhắc lại việc “thay áo” mới cho mấy chậu hoa chậu kiểng.
Già kiểng, nick thân mật của chị em tôi đặt cho bác Chín, người vẫn tới lui chăm sóc cây kiểng và cả cây trái trong vườn nhà tôi, được triệu tập tới. Đúng ngày rằm, sáng sớm má nấu một mâm cơm, bày hoa quả và một ít bánh trái, chỉ dẫn chị em tôi đặt chiếc bàn nhỏ dưới cội hoàng mai, bày biện mọi thứ rồi thắp nhang khấn khứa một cách trang trọng, trước khi già kiểng bắt tay vào lặt chiếc lá đầu tiên, bao giờ cũng bắt đầu từ cội hoàng mai ấy.
Hồi nhỏ, chị em tôi thắc mắc về nghi thức cúng kiếng nầy thì má giải thích: Để cầu mong cho cây ra nhiều nụ trổ bông đúng ngày mùng 1 đem lại may mắn cho cả gia đình… Ngày một lớn lên, chị em tôi càng nhận ra sự ưu ái của má giành cho cây hoàng mai. Nó là cây kiểng đã già lắm rồi, dù trồng trong chậu, nhưng thân to gần cả một vòng ôm, đặc biệt là lớp võ sần sùi cũng trổ đồi mồi y như da người già. Chị em tôi nghịch đọng tới cây hoàng mai như gở vỏ, bẻ cành là má la cho bằng thích. Tất cả cây kiểng trong vườn đều do ông ngoại để lại, nhưng riêng cây hoàng mai dường như còn liên quan tới một điều đặc biệt gì đó. Mỗi khi già kiểng đến cắt tỉa, má luôn đứng bên trông coi, dặn dò: Phải giữ nguyên hình dáng cũ của cây, không được sửa nét nào! Chị em tôi cứ thắc mắc mãi, cho đến một hôm, nhân ngày “cúng mai”, má đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện…
***
Năm nào cũng vậy, cứ độ rằm tháng chạp, lại thấy ông già xuất hiện với chiếc tay nải, gộ đồ nâu bạc thếch, và chiếc gậy trúc cũ kỹ gõ lốp cốp khắp xóm, cất giọng khàn khàn: “Ai lặt lá mai, lặt lá mai hôn?”
Lầu đầu ông xuất hiện, bọn trẻ tò mò ùa theo và phát hiện đôi mắt trắng đục vô hồn của ông. Chúng thì thầm với nhau: “Ông lão bị mù!” Điều bí mật được lan truyền khắp xóm. Không một nhà nào trong xóm dám thuê ông vì cả làng sống bằng nghề trồng mai, thu nhập chính trông dợi vào phiên chợ giáp tết. Bao nhiêu công sức cả năm trời đổ dồn vào vườn mai. Có những cội mai được nuôi nấng hàng chục năm. Người ta không muốn giao phó chúng cho một ông già mù. Dù lặt lá mai là công việc đơn giản, nhưng cũng đòi hỏi sự khéo léo, kinh nghiệm, nếu không mai sẽ không ra nụ hoặc nở đúng kỳ.
Vì vậy, ông già đi khắp xóm mà không một nhà nào gọi. Có một đứa bé khoảng bảy, tám tuổi đang thơ thẩn trước sân nhà. Con bé không bình thường như những đứa trẻ khác. Khi mới sinh, nó không cất được tiếng khóc. Bác sĩ thông báo có sự trục trặc trong bộ máy phát âm của nó. Nhưng không như những trẻ khuyết tật khác, con bé dù không nói nhưng vẫn tiếp nhận được mọi âm thanh. Nó rất nhạy cảm và lanh lợi. Bác sĩ bảo năm con bé lên tám sẽ phẩu thuật đưa nó trở lại tình trạng bình thường. Người cha đã lo liệu cho ngày nầy từ lâu…
Lúc con bé đứng chơi thơ thẩn, người cha đang đắp gốc mấy chậu mai. Mấy gốc mai nầy được trồng khi con bé chào đời, người cha đã đổ bao công sức chăm sóc với hy vọng sẽ bán được nhiều tiền chạy chữa cho con. Con bé thường lẩn quẩn theo cha khi ông làm lụng ngoài vườn. Mất mẹ từ năm lên ba, bao nhiêu tình thương người cha đều đổ dồn vào nó. Giữa hai cha con như có mối đồng cảm sâu sắc. Chỉ cần nhìn vào mắt con bé, người cha hiểu ngay nó mong muốn điều gì. Hôm ấy nghe tiếng ồn ào của đám con nít, con bé chạy ra cổng, trông thấy ông già. Lập tức, mái tóc chòm râu điểm bạc, bộ đồ cũ kỹ và chiếc gật trúc của ông đập vào tâm trí thơ dại của nó niềm thương cảm. Con bé ngây người nhìn rồi chạy đến níu tay cha. Người cha đặt cây cuốc xuống:
- Con muốn nói tội nghiệp ông già mù phải không?
Con bé gật đầu, đưa tay chỉ về phía ông già rồi chỉ mấy gốc mai.
- Con muốn cha gọi ông vào lặt lá mai phải không?
Con bé nhoẽn miệng cười, nhìn lúm đồng tiền xinh xinh và đôi mắt tròn xoe của nó, người cha chỉ mong làm mọi việc để nó được vui.
Năm ấy, vườn mai nhà hai cha con trúng rộ. Người cha vui vẻ “khoe” với mọi người: ông già không chỉ lặt lá mai mà còn uống hình hoa kiểng rất khéo. Đôi bàn tay ông như “nhìn” thấy được những cành nhánh thừa thải. Đặc biệt, ông rất “mát” tay. Cây mai nào ông lặt cũng sai nụ và nở rộ đúng mấy ngày tết.. Người cha còn bán được những côi mai ông lão uốn hình rồng, phượng với giá cao, chuẩn bị phẩu thuật, điều trị cho con bé.
Cuối năm ấy, như lời hẹn ông lão lại đến. Con bé chạy ra tận ngõ dắt tay ông vào. Nó cất giọng mừng rỡ, yếu ớt:
- Ông ơi! Ông vào lặt lá mai vườn cháu đi!
Giọng run run của con bé như chim vành khuyên vừa tập hót khiến ông già cảm động rưng nước mắt. Ông xoa đầu nó:
- Ông mừng cho con!
Suốt buổi, con bé lẽo đẽo bên ông:
- Ông ơi, sao lâu quá ông không ghé qua đây?
- Ông chỉ ghé vào dịp tết để lặt lá mai.
- Còn mọi khi ông đi đâu vậy?
- Ông… về quê.
- Quê của ông ở đâu vậy?
Ông lão ngừng tay vin cành, dõi đôi mắt vô hồn vào khoảng không xa xăm:
- Ở xa lắm con à.
- Ông cho con về quê ông với. Con sẽ xin phép cha.
Ông lão ngẩn người. Ông không biết trả lời con bé ra sao. Ông nào muốn dối trẻ con. Mà con bé rất dễ thương. Nó tỏ ra quyến luyến ông lắm.
- Quê ông ở xa lắm. Chừng nào con lớn ông sẽ dẫn con đến chơi.
Người cha rầy con:
- Bé Mai. Đừng có quấy ông nữa.
Ông già cười hiền từ:
- Không sao, không sao đâu mà!
Năm đó, không riêng hai cha con, nhiều nhà trong xóm mở cổng đón ông lão. Năm ấy mai đơm đầy cành, mai nở rộ khắp xóm. Cả làng trúng mùa hoa…
Từ đó, cứ mỗi độ gió chướng lao rao thổi, lại thấy ông già xuất hiện trên con đường dẫn vào làng. Mọi người bắt đầu mong ngóng ông. Sự xuất hiện của ông gắn với mọi điều may mắn. Có nghĩa là những ngày tết đang cận kệ, mọi người đã qua khoảng thời gian vất vả cực nhọc, sắp tận hưởng những ngày thảnh thơi vui chơi với hy vọng mọi sự tốt lành. Ngoài việc lặt lá mai, dần dà ông lão còn bày cho dân làng cách ươm trồng, chăm sóc, uốn nắn cây kiểng. Dân làng đã xem ông như người thân. Nhiều nhà, trong đó có gia đình con bé, nhiều lần mời ông ở lại, nhưng ông đều từ chối. Ông bảo phải về quê, nhưng nếu ai hỏi quê ông ở đâu thì ông bần thần lặng im. Vì vậy ít ai nhắc tới nữa. Chỉ có con bé, những đận ông ghé nhà, nó vẫn theo gợi chuyện:
- Ông ơi, quê của ông đẹp lắm phải không ông?
- Ờ, đẹp lắm con à.
- Ở đó có trồng mai không ông?
- Có, nhiều lắm con à. Đủ loại, nào mai chiếu thủy, tứ ly rồi hoàng mai, bạch mai…
Con bé reo lên rồi bỗng im bặt. Nó vửa thoáng thấy hai giọt lệ ứa ra từ khóe mắt sâu thẳm của ông già. Nó nghe tim thắt lại dù không hiểu vì sao. Nó không dám hỏi nữ nhưng dự định thế nào lớn lên nó cũng tìm đến thăm quê ông lão.
Một năm, con trăng tháng chạp tròn rồi khuyết dần, khuyết dần, mà chẳng thấy bóng dáng ông lão. Mọi người đều trông ngóng ông, “Sao năm nay ông già không đến?”, “Không biết có chuyện gì xảy ra với ông không?”. Người ta cứ thắc mắc mà chẳng tìm ra lý do sự vắng mặt của ông. Người buồn nhất làng có lẽ là con bé. Ông lão đã hứa năm nay sẽ ở lại ăn tết cùng cha con nó. Con bé đã soạn sữa mọi thứ. Từ nồi thịt kho, hũ dưa cải đến chai rượu thuốc… Mất mẹ từ bé, nó đã sớm tập nết lo toan như người lớn. Thêm nữa, nó rất yêu ông lão. Với nó, ông không chỉ là người đến lặt lá mai thuê, mà như là người thân. Nó đã đếm từng ngày trông chờ…
Thế mà ông lão đã không đến. Con bé càng sầu thảm hơn khi trong làng có người đi buôn chuyến xa về kể rằng: Có một ông già mù nằm chết ven đường. Ông già hành khất không nhà cửa, thân thích nên bà con quanh đó đã hùn tiền mua cho tấm áo quan, đắp điếm cho nắm mộ ngoài bãi tha ma. Nghe như lời tả của người dân ở đấy thì ông lão hành khất rất giống với ông lão vẫn đến lặt lá mai trong làng!
Chẳng biết hư thực ra sao nhưng từ dạo đó, không còn thấy ông già mù với tiếng gậy trúc gõ lốc cốc đi vào làng nữa.
Năm năm sau, hình ảnh ông già mù đã phai mờ trong ký ức dân làng. Làng mai đã trở thành một làng hoa kiểng có tiếng, người mua kẻ bán tấp nập. Tết ấy, có bà khách phương xa đến xem vườn kiểng của làng. Bà khách vào khu vườn của hai cha con. Sau khi đi dạo một vòng ngắm nghía, bà dừng lại trước cội mai già, tần ngần ra vẻ xúc động.
- Xin cho hỏi ai là người đã uốn hình con rồng nầy?
Đó là cội mai cao tuổi nhất ông lão mù đã uốn tỉa trong lần cuối đến đây. Nhiều người đã hỏi mua và đặt giá rất cao nhưng hai cha con đều từ chối. Họ muốn giữ lại chút kỷ niệm về ông lão. Cô gái (chính là con bé năm nào), bảo với bà khách:
- Chính ông của cháu uốn đấy bà ạ.
Bà khách nhẹ lắc đầu:
- Tôi có biết một người đã từng uốn nên hình dáng con rồng thế nầy. Chỉ duy nhất một người…
Bà khách kể: “Ông ấy là nghệ nhân chơi hoa kiểng nổi tiếng ở làng tôi. Ngày ông thân tôi còn sống, vẫn mời ông đến nhà uống trà, đàm đạo về cách nuôi trồng hoa kiểng. Vườn kiểng của ông nổi tiếng với đủ loại cây quí được chăm sóc, uốn tỉa rất công phu. Người chơi kiểng khắp nơi thường tìm đến ông tham quan và trao đổi, học kinh nghiệm.. rồi những năm chiến tranh, vườn kiểng của ông nằm trong số phận chung của xóm ven, trở thành vùng tranh chấp, mục tiêu oanh tạc của bom pháo, mọoc- chê… chỉ một quả napan mà trong phút chốc công sức gầy dựng bao năm trời của ông đã bị thiêu rụi. Khi gắng sức lao vào dập lửa để cứu cây kiểng, ông bị mù cả hai mắt. Đau khổ, tuyệt vọng khiến ông như người mất trí. Ông bỏ làng, trôi dạt khắp nơi, làm đủ nghề để sinh sống. Về sau, già yếu, nghe nói phải đi ăn xin. Nhiều người khuyên ông trở về làng cũ, nhưng dù thế nào ông vẫn không quay lại cái nơi ông hằng tha thiết nhớ mong. Bỡi vì ông có thể cam chịu mọi vất vả, kể cả đói khổ và cái chết, nhưng làm sao ông có thể chịu đựng nổi khi mọi người biết rằng người nghệ nhân tài hoa năm nào giờ đã trở thành lão hành khất tật nguyền…”
Bà khách trong câu chuyện của má đã “ra về” từ lâu, chị em tôi vẫn còn đứng lặng trước cội mai già. Mấy má con bần thần nhìn dáng con rồng uốn lượn với cái đầu ngẩng cao vươn lên bầu trời, và như thấy hiện lên mồn một hình dáng ông già mù với chiếc tay nải, bộ đồ nâu bạc thếch, chiếc gậy trúc gõ lốc cốc, cất giọng khàn khà: “Ai lặt lá mai, lặt lá mai hôn…”
Thu Trang
(Theo Tuyển tập Truyện ngắn Quê ngoại)